Liễu Pháp
Ðã khá lâu chúng ta ít biên thư cho
nhau, có lẽ cũng vì bận bịu gì đó mà
cũng có thể một lý do gì khác, chẳng hạn nghĩ rằng những gì mình viết cho
nhau từ bấy lâu nay rồi cũng qua đi trong quên
lãng, chẳng có gì tồn tại lâu và cũng chẳng ích lợi gì mấy. Thực sự, thăm
hỏi sức khoẻ của nhau hoặc được biết những gì
đang xảy ra trong đời sống thì cũng
tốt vì thăm hỏi ân cần thì cảm thấy ấm
lòng nhất là khi ở xa, ít có dịp hàn huyên. Tuy vậy hỏi và trả lời những
chuyện này mãi thì cũng sẽ hết chuyện thôi ... Từ nay chúng ta thử thỉnh
thoảng suy nghĩ rồi viết cho nhau về một đề tài
nào đó, biết đâu nhờ vậy mình có dịp
suy tư nhiều hơn hay sâu hơn về một đề tài
mà mình chưa có dịp dành thì giờ để suy nghĩ.
Ðề tài thì chẳng thiếu gì, chẳng hạn vấn
đề gia đình, vấn
đề con cháu, vấn đề hạnh phúc hay đau khổ,
vấn đề bản thân, vấn đề văn hóa, vấn đề cuộc sống, vật chất và tâm
linh, vấn đề tu học...Mình viết cho
nhau, giữa bạn bè thân quen, ghi lên giấy những cảm nghĩ
đến trong tâm như những nét tạp ghi, không
cần sắp xếp cẩn thận, chỉ để chia xẻ, trao đổi và
để cùng suy nghĩ với nhau. Khoảng
chừng 20 năm trước, trong một buổi vấn đạo,
một thiền sư khuyên mình hãy về tìm bạn mà cùng tu học;
có lẽ đây phần nào cũng cùng một ý hướng như vậy.
Lần này chúng ta hãy thử suy nghĩ và thảo luận về sự
phát triển trí tuệ. Sự phát triển trí tuệ ai cũng thấy rất là cần
thiết cho mọi hành xử hằng ngày, từ những sự chọn lựa thông thường cho
đến những quyết định quan trọng trong đời
sống; đó là chưa nói tới những bước ngoặc (turning points) trong
cuộc đời khi mà một quyết
định có thể thay đổi hẳn một lối sống hay có
thể chuyển nghiệp và làm thay đổi kiếp
sống này và ảnh hưởng các kiếp sau... Sự chọn lựa hay
quyết định thường phải có ở những ngã tư
đường, khi mình
đang ở vào một vị thế, một hoàn cảnh
hay một tình huống mà mình phải chọn lựa, như là khi
đi đến một ngã tư, phải quyết
định đi thẳng, quẹo phải hoặc quẹo trái hoặc
dừng lại. Thường thì sau khi hoàn thành một giai
đoạn nào
đó của cuộc sống, phải có sự chọn lựa cho một giai đoạn khác; đôi khi vì
một biến cố, một hoàn cảnh thay đổi hay một
sự giác ngộ, ta quyết định một sự thay đổi...Nhiều khi ta đang đi qua một
ngã tư mà không hay biết, cứ cắm đầu
đi thẳng, dường như không thấy hai lối rẻ phải hoặc rẻ trái, mãi
lâu về sau mới nhận ra được ngã tư
đã đi
qua, sau khi bình tâm, phản tĩnh hoặc khi trí tuệ mình
được phát triển hơn...
Ngã tư đường thì chắc chắn là
không ít trong đời sống của chúng ta. Những
ngã tư đường thông thường ai cũng có, như khi
lớn lên chọn một ngành để học, chọn
một nghề để sinh sống, chọn một nơi để sống, chọn một bạn đời, v.v.. Có
những ngã tư đường khác đặc biệt hơn mà
không hẳn ai cũng có, ví dụ như khi gặp được
nhân duyên nào đó, phát triển được trí
tuệ hơn trước hoặc đạt được một giác ngộ, có người đă thay đổi hẳn đời
sống của mình, không tiếp tục đi thẳng
mà quyết định rẻ trái hoặc rẻ phải
theo trí tuệ hướng dẫn vào thời điểm
đó. Ví dụ một việc gì đó mới xẩy ra
trong đời sống của một người, chứng kiến một biến cố hoặc nhận chân một sự
đổi thay, đã làm người đó mở mắt ra, làm
người đó tỉnh ngộ, thấy đời quả không như mình
tưởng; chẳng hạn nhận thấy đời quả là
vô thường, chẳng có gì tồn tại lâu dài hoặc thấy nhiều sự việc xảy ra mình
chẳng kiểm soát hay điều khiển được gì
hoặc thấy sự vật, hiện tượng nào tuy cũng có những
đặc tính riêng nhưng không
đứng riêng lẽ
được mà phải tùy thuộc vào những
điều kiện, những yếu tố mình không
thấu hiểu được... Suy tư thêm một
chút, người đó nhận thấy bấy lâu nay, qua
nhiều năm tháng, mình đã bỏ hầu
hết thời giờ chạy theo công việc, chạy theo vật chất, tiền bạc, ái dục
hoặc địa vị, danh vọng, nghĩ rằng phải dành
hết thì giờ như vậy để xây dựng cho một tương
lai nào đó cho mình hoặc gia
đình mình; nay thì thấy sự suy nghĩ
này đã bắt
đầu lung lay, cái tương lai dự tưởng đó không
hẳn tùy thuộc vào mình mà còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác... Có
người trong chúng ta nhiều năm đeo đuổi một
lý tưởng, một mục đích nào đó, nay sự
biến đổi của thời cuộc làm cho người
đó vở lẽ, nhận chân được sự không tưởng, sự vô nghĩa của những gì
mình đã theo
đuổi... Từ đó, người này không còn chỉ
biết chạy theo công việc hoặc lý tưởng mà bắt
đầu để tâm tìm hiểu hơn về đời sống,
về con người, đọc sách về triết lý, tìm hiểu tôn giáo. Có người bỏ
nhiều thì giờ khảo cứu về một hệ thống triết lý, nghiên cứu một hệ thống
tâm lý học nào đó; có người để tâm tìm
thầy, tìm bạn để học đạo, tìm giải
đáp cho nhiều thắc mắc về cuộc đời...
Ðặc biệt trong đời sống, thắc mắc về sự đau khổ
và hạnh phúc có thể là vấn đề hàng
đầu, hạnh phúc thì thường không trọn
vẹn và chẳng tồn tại lâu dài, đau khổ thì
dường như không thể tránh khỏi, đầy rẫy,
không kể xiết... và dường như ai cũng có. Nhìn chung quanh và khắp
nơi, đau khổ tràn
đầy. Phần lớn là do người gây cho
người. Tìm hiểu về tù đày ở nước mình
chỉ trong khoảng 50 mươi năm trở lại, không
thể hiểu nỗi tại sao con người lại có thể tạo cho nhau những đau khổ khốn
cùng như vậy. Còn thấy đâu là
lương tri, là tình cảm; sân hận phải ngập trời mới che mờ tất cả trí tuệ,
chỉ còn lại si mê. Si mê chúng ta thấy hằng ngày trên thế giới, si mê
đến độ không còn kể tính mạng của
mình, ôm bom để giết chính mình và một
số người cho là thù địch, không kể đàn
bà trẻ con, không kể một người hay hằng ngàn người (9/11/01 tại Mỹ); rồi
hằng ngàn tấn bom lại cũng do sự sân hận đổ
xuống một đất nước nghèo khổ vừa mới trải qua một cuộc chiến tranh
tổn hại. Ðã có được bao nhiêu người
thâu nhận được "thông điệp cho toàn
thế giới" của Tỳ Kheo Bodhi (BPS Newsletter, No 34, 1996) về sự tự tìm
hiểu và chuyển hóa chính mình? Xưa nay đã
có một ý thức hệ nào, một triết lý, một tôn giáo nào ngoài Phật Pháp
đem lại sự giải quyết rốt ráo về vấn đề đau
khổ của nhân loại?
Nhận chân nhiều đau khổ trong cuộc đời, cố tìm
nguyên nhân để giải quyết, có thể nói là
một trong những ngã tư đường khởi đầu nhưng
rất là quan trọng. Các ngã tư đường
cũng như các nhân duyên đưa đẩy trong
cuộc sống, có lẽ chẳng có nhân duyên nào là nhân duyên nhỏ hay vô
cớ; nhân duyên như các khoan nối liền dây xích, có khoan thì nhỏ hơn các
khoan khác, nhưng không có khoan này thì không thể nối liền và không
đến được các khoan khác được...Một nhân duyên
nhỏ đôi khi mình tưởng là không
đáng để ý, nhưng mà hãy coi chừng,
đôi khi nó có thể mang lại cho mình
một kinh nghiệm, một sự thức tỉnh hay giác ngộ quí hoá. Một ví dụ: Gần
đây, bà xã mình tình cờ nói một
đôi chuyện tuy thông thường mà làm
mình suy nghĩ. Hằng tuần bà và con gái út tình nguyện
đi đưa cơm cho các người cần được giúp đở
(trong chương trình Meals On Wheels -
đưa cơm cho người già hoặc bệnh) và lâu ngày rất quen biết, gần gủi
một số người này; bà thường hay mua vài món quà nhỏ tặng họ, nhất là mấy
người già không con cái hoặc con cháu ở xa ít thăm
viếng. Hỏi tại sao thích cho quà như vậy thì
được trả lời "thấy họ thường buồn bã,
làm họ vui lên một chút thì cũng bớt khổ..." Một hôm, bà
đi mua mấy món quà mang theo trong xe
và đi đưa thức ăn, nhưng khi trở về thì
coi bộ không vui; hỏi ra thì một người quen đã
vào bệnh viện và một người khác không còn nữa; bà nói: "mới còn
đó tuần trước mà nay
đi rồi, quả là vô thường"...Bà thường
hay gọi điện thoại nói chuyện với mấy người
cô đơn này, hay đúng hơn là
để nghe họ kể lễ tâm sự; nói rằng "biết lắng
nghe cũng làm nhẹ bớt đau khổ".
Ðây chính là ý nghĩa của chữ "Từ Bi". (Mình đã
học chữ này bao nhiêu năm mà nghĩ lại
đã có mấy lần áp dụng? Hằng ngày trong
lúc thiền tập, mình đều có quán tâm từ, nhưng
trong đời sống đã làm được những gì
cụ thể về phương diện này? Xét lại bản thân, mình
đã ít chú trọng về hạnh Bố Thí, ít
hành hạnh Nhẫn Nhục, như vậy là mình đã
thiếu sót trong việc hành Lục Ðộ). Từ khi dời về sống ở một tiểu bang
không có chùa chiền ở gần, mình nghĩ bà phải nhớ nhiều về ngôi chùa
đẹp đẽ gần nhà ở Minnesota, nơi bà
thường đến lễ Phật và cúng Phật; mình
hỏi bà có nhớ đi chùa cúng Phật không
thì được trả lời: "nhớ đi chùa lạy
Phật thì có, còn ở đây bố thí, cúng
dường chúng sanh, thì khác chi cúng Phật" (Làm dịu bớt nỗi khổ con người,
cúng dường chúng sanh không khác gì cúng Phật, thật là chí lý). Một câu
nói thông thường, một sự việc xãy ra hằng ngày cũng có thể giúp ta phản
tỉnh, cảm nhận thành một kinh nghiệm, một giác ngộ, như một khoan nhỏ của
chuổi dài nhân duyên trong tiến trình giác ngộ...
Mình nhớ hồi mới lớn còn ở bậc trung học,
đã nhiều lần
đi lên
đồi cao, hòa mình với cảnh thiên nhiên, nhìn xuống thành phố Huế
xinh đẹp với dòng sông Hương quen
thuộc, không khỏi ngông cuồng mơ mộng lấp biễn vá trời...(Tuổi trẻ thì
thường mơ mộng ngông cuồng, muốn trị quốc, bình thiên hạ, nhưng khổ nỗi là
không nghĩ đến là phải tu thân
trước khi muốn tề gia hay bình thiên hạ!).. Rồi hết bậc trung học, phải
chọn ngành vào đại học, không biết phải chọn
ngành gì, thử đi vào Toán Lý
Hoá, rồi Toán Ðại Cương rồi Cao Ðẳng Sư Phạm, cuối cùng lại ra trường
ngành Ðiện (một ngành ít khi nghĩ tới mấy năm
trước đó, nhưng ngành gì, nghề gì sau này mới hiểu cũng chỉ là
để mà sinh sống mà thôi, miễn là không
phạm tới Chánh Mạng và Chánh Nghiệp..), nhưng trong thâm tâm bao nhiêu năm
vẫn thích học Triết và mơ được học ở
trường Sorbone bên Pháp (!). Biết rằng cơ hội xuất ngoại sẽ rất khó
đến, tuy nhiên vẫn hy vọng "ngày nào
đó cơ hội sẽ đến" và tự nhủ "tại sao
lại không bắt đầu đọc Albert Camus, Jean Paul
Sartre, Simone De Beauvoir...?". Nghĩ lại, thấy cũng không có gì
lạ, cái triết lý hiện sinh, "Kẻ Xa Lạ" của Albert Camus
đã đem
lại sự mới lạ cho nhiều người chịu ảnh hưởng của văn hoá đông phương (chịu
ảnh hưởng của Khổng, Lão và Phật giáo). Sự mơ mộng học triết ở
Sorbone có lẽ bắt nguồn từ những năm học
chương trình Pháp ngữ ở trường Thiên Hựu Huế mà có lẽ cũng do sách
báo của nhóm Sáng Tạo, Bách Khoa ở Sài Gòn;
điều này cũng chứng tỏ ảnh hưởng của
văn hóa Pháp, của 80 năm đô hộ của thực dân Pháp, cái cộng nghiệp của dân
trong nhiều nước thời thực dân đế quốc. Có lẽ đây chỉ là những nhân
duyên gần, còn có thể có những nhân duyên khác mà mình không biết
được. Cái mơ mộng học triết, đến sự ưa thích
đọc sách văn hoá, tìm hiểu tôn giáo...rồi
đi tìm tòi một triết lý sống, một lối
sống đã chứng tỏ có nhiều câu hỏi chưa
đươc giải đáp. Có lần mình
đã dự một khoá huấn luyện của Werner
Erhart, huấn luyện thể chất và tâm lý mà sau này mình mới biết chẳng ích
lợi gì. Tuy trong cuộc đời thiếu gì
người trải qua các giai đoạn "đi tìm
tòi" như vậy (mệnh danh là kẻ tìm kiếm, seeker, mà không biết mình
đi tìm cái gì) nhưng nghĩ lại cũng
không khỏi thấy buồn cười cho cái tuổi trẻ vô tư, năng
động, muốn làm một cái gì mà chẳng biết mình muốn gì... Như trên có
nói, những ngã tư đường hay những chọn lựa nào
đó trong cuộc đời ta có khi chỉ lãng
phí thì giờ, có khi là nhân duyên tốt cho về sau, thường thì lúc chọn lựa
đó mình không thể biết sẽ ra thế nào,
chỉ chọn lựa tùy theo sự hiểu biết của trí tuệ có giới hạn lúc
đó mà thôi; về sau khi mọi sự việc
liên hệ đã xãy ra, mình mới có sư cảm
nhận đúng đắn hơn (hind-sight). Có những nhân
duyên đưa đẩy, đến rồi đi, tiếp nối
nhau, chúng ta không rõ những nhân duyên này có liên hệ gì với nhau
hay không và những chọn lựa hay quyết định
của ta có thực sự quan trọng như ta nghĩ chăng? Có nhiều sự việc nhiều năm
trước ta cho rất là quan trọng, nay nghĩ lại thì thấy chẳng quan
trọng gì. Có những câu hỏi về con người, về
vạn vật, về cuộc sống, chẳng hạn về sự đau khổ của con người mà ta
thường không trả lời được. Nhận chân được sự
giới hạn của trí tuệ của mình là một giác ngộ rất cần thiết, giúp
ta thấy được rằng mình cần phải tìm
cách phát triển trí tuệ.
Sự phát triển trí tuệ là tối quan trọng cho tất cả mọi
người... Mọi quyết định hay chọn lựa tùy
thuộc vào trí tuệ của ta mà trí tuệ của ta có giới hạn và cần
được phát triển để cho ta bớt vô minh, để có
sự chọn lựa sáng suốt hơn, để nhận chân mọi việc một cách đúng đắn...
Ðời người ngắn ngủi, nếu trí tuệ không
được phát triển kịp thời thì các chọn lựa của ta (hoặc sự không
chọn lựa gì cả) sẽ chẳng đưa ta tới đâu và
lãng phí một đời. Nghĩ như vậy ta có thể cho
sự phát triển trí tuệ đương nhiên là cần thiết, tuy nhiên ta vẫn
chưa thấy rõ mục đích sâu xa của sự phát
triển trí tuệ và ta phải phát triển trí tuệ như thế nào ?
Ðể giải đáp câu hỏi trên
về mục đích thực sự của sự phát triển trí
tuệ, ta cần phải phân biệt như sau: sự phát triển trí tuệ khởi đầu hay sự
phát triển trí tuệ thông thường chỉ có mục đích là phát triển kiến
thức giúp ta hiểu biết hơn, sáng suốt hơn, suy tư
đúng đắn hơn để hành xử
đúng đắn hơn trong đờì sống hằng ngày,
chứ chưa phải là sự phát triển trí tuệ rốt ráo
để đạt được "Nhất Thiết Liễu Trí", là
trí tuệ biết được tất cả những gì cần
biết, là mục đích tối hậu của sự tu tập, là
trí tuệ hiểu rõ mọi pháp thế gian và siêu thế gian, là Trí Tuệ
đã giải quyết
được các nguyên nhân tạo ra
đau khổ, là Trí Tuệ Giác Ngộ, Trí Tuệ
Giải Thoát. Phần hai của câu hỏi là phát triển trí tuệ như thế nào: là học
hỏi Phật Pháp và tu hành theo con đường thanh
lọc tâm. Ðó là Pháp Học (pariyatti) và Pháp Hành
(patipatti). Phật Pháp chỉ rõ con đường
Giới, Ðịnh, Huệ để chúng ta thực tập
theo, để đạt được một trí tuệ không còn vô minh, một tâm không còn
ô nhiễm. Vô minh là Si Mê, là bị mê mờ không thấy rõ, là một trong ba Tam
Ðộc (Tham, Sân, Si). Si cũng chính là nhân của Tham và Sân, diệt
được Si rốt ráo là
đạt được một tâm trong sạch, không còn
ô nhiễm, là có được một trí tuệ "qua
tới bờ bên kia", một Trí Tuệ Giác Ngộ. Vì thế
đạo Phật còn gọi là đạo Trí Tuệ, đi
theo con đường Giới và Ðịnh để đến Huệ
và cứu cánh là Diệt Khổ.
phát triển trí tuệ là giải quyết vấn
đề Vô Minh. Vô minh là một khoen lớn
trong 12 khoen trong dây xích Thập Nhị Nhân Duyên, khoan này
đưa đẩy khoen kia, nhân duyên này tiếp
nối nhân duyên kia, làm chúng ta luẩn quẩn trôi lăn
trong đau khổ, kiếp này qua kiếp khác trong luân hồi sinh tử. Một
trong 12 khoan trong Lý Duyên Khởi phải được
chặt đứt thì xây xích trói buộc ta mới bung ra và giải thoát ta.
Trong các pháp thoại về sự thực tập thiền quán, các thiền sư
đã dạy chúng ta một trong các khoan có
thể chặt đứt được bằng Thiền Minh Sát là
khoan Thọ trong Thập Nhị Nhân Duyên; thiền Minh Sát
đặt căn bản từ kinh Tứ Niệm Xứ, nói về bốn lãnh
vực quán niệm: Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Thiền Minh Sát, tùy theo truyền
thống, có thể chuyên quán Thân, có thể chuyên quán Thọ hoặc quán Tâm, quán
Pháp, v.v... Chúng ta có thể tìm hiểu sơ khởi bằng cách
đọc các sách "Four Foundations of
Mindfulness" của Ngài U Silananda, Con Ðường Chuyển Hóa của Ngài Thích
Nhất Hạnh, các sách và pháp thoại khác về Tứ Niệm Xứ của các Ngài Achaan
Naeb, Mahasi, Goenka... Tuy nhiên đi sâu hơn
thì phải theo học "Khóa Ðặc Biệt về Tứ Niệm Xứ" của Ngài S.N.Goenka
sau khi thiền tập ba khóa dài hạn 10 ngày và giữ ngũ giới thật trong
sạch... (Kinh Tứ Niệm Xứ rất là quan trọng và là một
đề tài sâu rộng mà chúng ta có thể tìm
hiểu và thảo luận với nhau trong một dịp khác). Nói một cách tổng quát, ba
chi về Ðịnh trong Bát Chánh Ðạo là căn bản
của mọi phép Thiền Quán; phương pháp thiền tập có khác nhau về hình
thức tùy theo tông phái (Bắc Tông, Nam Tông hay Mật Tông) nhưng căn
bản không ngoài Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, Chánh Ðịnh. Ngay trong
các phép thiền Nam Tông đều áp dụng Kinh Tứ
Niệm Xứ mà phương pháp thực tập cũng có phần khác nhau; có truyền
thống thì chuyên niệm cảm thọ (Ngài U Ba Khin, Goenka...), nhưng một
truyền thống khác thì niệm phồng xẹp của bụng (Ngài Mahasi Sayadaw, U
Silananda, U Pandita, U Kundala, ...). Nói chung, các Ngài dạy rằng tập
định bằng phép quán niệm hơi thở hoặc một
trong 40 đề mục của Thiền Chỉ để tập định trong giai đoạn đầu là
cần thiết để tâm được ngừng nghĩ, tĩnh lặng.
Tuy nhiên các Thiền Sư thường nhắc nhở thiền
sinh đừng để tâm đi xa quá, đừng đi khỏi Sơ Ðịnh vào Cận Hành Ðịnh
và Cận Ðịnh, đến các tầng thiền của Thiền
Chỉ. Từ Sơ Ðịnh thiền sinh phải luôn tỉnh thức, giữ chánh niệm và
biết chuyển qua Thiền Quán, quán sát những gì xảy ra ở sáu cửa giác quan,
quán Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Mục đích của Thiền
Chỉ là để đạt được sự vắng lặng của
Tâm, đạt được trạng thái Tâm An Lạc và Nhập Ðịnh; qua
được Cận Hành Ðịnh và Cận Ðịnh thì có
thể khắc phục tạm thời năm trở ngại (ngũ
triền cái: tham dục, sân hận, hôn trầm, phóng dật, hoài nghi) nhưng
mà sẽ không "thấy" , không nhận biết được
Sinh-Diệt (một tuệ tối quan trọng).
Sự nhận biết này là do
trí tuệ Minh Sát mà không do sự Ðịnh Tâm. Mục
đích của Thiền Quán hay Thiền Minh sát là phát triển trí tuệ,
để đạt được các tầng Tuệ và Giải
Thoát, là phát triển trí tuệ đến một Trí Tuệ
Giác Ngộ. Trong Thiền Quán, thiền sinh phải trải qua năm chi thiền, đó là
Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc và Nhất Tâm. Nhờ sự tĩnh lặng, tâm dễ quán thấu
được những gì xảy ra, tâm sẽ xuyên
suốt vào đối tượng, thấy được sự liên
hệ hỗ tương của Thân và Tâm, thấy được Danh
Sắc, rồi Nhân Quả, Sinh Diệt, Tam Tướng, Xả. Nói rằng tâm xuyên
suốt vào đối tượng không chỉ là nói
một cách trừu tượng mà thôi. Trong phương pháp quán cảm thọ theo truyền
thống của Ngài U Ba Khin, cái kỹ thuật "quét
tâm" (sweeping) đưa tâm đi quan sát mọi cảm thọ suốt khắp thân thể, từ đầu
tới chân, giúp ta nhận chân được rằng thân thể mà ta tưởng gồm các
phần rắn chắc không hẳn là như vậy. Ở một giai
đoạn nào
đó, cái thân thể rắn chắc bị tan ra, quan sát kỹ thì thấy cái kiến
trúc vật chất của thân thể chỉ là một khối những nguyên tử nhỏ li ti, khởi
lên và biến đi, rồi khởi lên và biến
đi; toàn thân thể chỉ là một khối
những rung chuyển (mass of vibrations)... Minh Sát có nghĩa là quan sát
rõ, thấy rõ, dịch từ chữ Pali "Vipassana" gồm chữ "Vi" có nghĩa "nhiều
cách" và chữ "Passana" có nghĩa là "thấy", có nghĩa là "thấy nhiều cách",
thấy rõ các "tướng", các bản chất của sự vật, thấy Vô Thường, Khổ, Vô Ngã.
Hồi cuối thập niên 1960 và nửa thập niên 1970, mình thiền
tập theo phái "Nhất Thừa" đặt căn bản từ kinh
Pháp Hoa; cuối thập niên 1980, mình có dự vài khoá thiền tập tại Tu
Viện Kim Sơn (San Jose) - Ngài Nhất Hạnh dạy tỉnh thức, an trú trong hiện
tại bằng phép quán niệm hơi thở theo kinh An
Ban Thủ Ý. Trong những năm đầu thập niên 1990 (có thể nói là
turning point), mình học thiền với các Ngài Kim Triệu, U Pandita ở Tu Viện
Taungpulu (Watsonville, CA), Như Lai Thiền Viện (San Jose, CA), rồi sau
đó với các Ngài U Silananda, U Kundala
ở Toronto và Montréal, Thích Ca Thiền Viện (Riverside,CA) và các Ngài Kim
Triệu, H. Gunaratana ở Chùa Phật Ân (Roseville, Minnesota). Những năm
gần đây mình thiền tập theo phương pháp quán cảm thọ của Ngài U Ba
Khin, do các Thầy Phụ Tá của Ngài Goenka dạy (Prairie Du Chien, WI và St.
Paul, MN). Mùa hè này, mình sẽ dự khóa "Thiền Sinh Cũ với Ngài Goenka" và
khóa "10 ngày". Nói những chuyện này để thấy
trên con đường tu học, mình vẫn
phải tùy thuộc vào các nhân duyên đưa đẩy,
dần dần mới tìm được phương
pháp có thể nói là thích hợp với mình, nhưng rồi có tiến xa
được hay không lại là một chuyện khác,
còn phải tùy thuộc nhiều yếu tố, liệu sẽ có
được nhiều thuận duyên ít nghịch duyên
để được tiến triễn hay không?
Giữ giới và thiền tập là thiết yếu, nhưng trạch pháp cũng
rất là cần thiết để có sự hiểu biết căn bản,
để khỏi lãng phí thì giờ vì đi lạc
đường do sự hiểu biết nông cạn hay sai lầm. Chúng ta cần có một kiến thức
căn bản về Phật Pháp, thí dụ học hỏi qua về Ngũ Uẩn, học hỏi về Căn, Trần,
Thức để biết thêm giác quan thứ sáu là Ý Thức, nói nôm na là Cái
Biết, là Tâm. Học để biết khái niệm, nhưng
thế nào cũng có nhiều thắc mắc. Ví dụ chúng ta ai cũng biết rõ ràng
năm căn Nhãn, Nhỉ, Tỉ, Thiệt, Thân,
còn căn của Ý Thức là gì và ở
đâu? Căn của Ý Thức phải chăng là Óc
Não hay Quả Tim hay là một "physical property" khác ở trong cơ thể? Giải
đáp cho thắc mắc này
đâu phải dễ. Ði vào sự học hỏi Phật
Pháp thì mình thấy Phật Pháp thật là cao siêu, thâm sâu. Chúng ta có
đọc và học hỏi mấy thì cũng còn nhiều
thắc mắc. Ví dụ để tìm hiểu về Vô Ngã,
về Niết Bàn, ta có thể tìm đọc Kinh Vô Ngã
Tướng (Mahasi Sayadaw, Phạm Kim Khánh dịch), What The Buddha Taught
(Walpola Rahula), Vô Ngã Là Niết Bàn (Thích Thiện Siêu), Tuyệt Quán Luận
của Ngài Bồ Ðề Ðạt Ma, Kinh Pháp Bảo Ðàn (Thích Thanh Từ) ... thì ta cũng
chỉ mới có một khái niệm về Vô Ngã, Niết Bàn. Ngài Lục Tổ ngộ
đạo từ Kinh Kim Cang, dùng Kinh này
như lưỡi gươm để chặt đứt mọi phiền não,phát
triển thiền tông, còn chúng ta, cho dù có nghiên cứu hết Kinh Tạng, Luật
Tạng và Luận Tạng mà không tu tập thì vẫn còn trong vòng luẩn quẩn với
nhiều thắc mắc tương tự như trên. Chúng ta phải nhìn nhận rằng trí tuệ
hiện có của mình vẫn chưa được phát triển đến
nơi đến chốn và sự phát triển trí tuệ bằng trạch pháp thì cần thiết
mà chưa đủ, cần phải phát triển hơn bằng sự
tu tập.
Thắc mắc về Phật Pháp cũng như về sự tu tập thì có nhiều.
Sau đây là một thắc mắc mà mình nghĩ
người khác cũng có thể có: Tuy mình vẫn trạch pháp và thiền tập
để phát triển trí tuệ mà cảm thấy
không tiến bộ mấy, tuy rằng cũng nhận thấy mình bớt
được ít nhiều dính mắc với cuộc đời.
Ðiều này làm mình phải nghĩ đến lý do tại sao
lại cảm thấy chậm tiến bộ như vậy; sau đây mình thử suy nghĩ
để tìm một vài lý do:
1) Phải chăng là do mình nóng lòng và mong ước
nhiều quá?
2) Phải chăng là do mình chưa
đủ
tinh tấn chuyên cần trong sự tu tập? hoặc còn nhiều ái dục và giới
luật chưa
được trong sạch lắm?
3) Phải chăng là do c
ăn cơ, nghiệp
báo kiếp này và nhiều kiếp trước?
Lý do thứ ba thì có lẽ khó bàn và khó
kiểm chứng được. Hai lý do đầu thì chúng ta có thể có ý kiến,
đúng hay sai hoặc khách quan hay không là
một chuyện khác, nhưng cũng có thể thảo luận, góp ý kiến với nhau:

- Sự cảm thấy chậm tiến bộ có lẽ là do sự mong ước, trông chờ; sự mong
ưóc (expectation) có thể là một trở ngại cho ta trong tiến trình tu học.
Có lần trước khi dự một khoá thiền dài hạn, mình chuẩn bị tinh thần với
nhiều mong ước, hy vọng sẽ tu tập có kết quả ... nhưng trong buổi pháp
thoại đầu tiên
được dạy ngay là
đi vào thiền quán thì không nên mong
ước gì cả, chỉ cần có sự tin tưởng vào Tam Bảo, cố gắng chuyên cần hành
thiền, giữ Chánh Niệm bén nhạy, Ðịnh căn sẽ
tiến triễn vững chắc và làm phát triển Tuệ căn.
Sự mong ước này có lẽ do mình thiếu kiên nhẫn, thiếu nhẫn nhục,
một trong 6 chân của Lục Ðộ mà mình xét thấy cần phải thực hành nhiều
hơn.
- Mình chưa có thể để hết thì giờ
toàn phần vào việc tu học, chưa xuất gia, chưa phải là một hành giả toàn
phần (devoted yogi), còn phải dính mắc nhiều với cuộc
đời thì
đương nhiên kết quả của tu tập phải chậm thôi. Nói vậy không có
nghĩa là đã giải
đáp được vấn đề, tại sao có những người
khác, cũng là cư sĩ như chúng ta, lại tiến bộ nhanh và dễ dàng
hơn ta? Phải chăng họ đã tinh tấn
nhiều hơn ta? Phải chăng mình còn
nhiều ái dục và vô minh hơn họ? Ðiều này có phần hữu lý và giải
đáp được phần nào lý do về cường
độ của sự tu tập; một thiền sư có dạy rằng
sự tinh tấn phải đều đặn liên tục (diligent, steadfast), mãnh
liệt (ardent) và phải là sự cố gắng kiên cường anh dũng (heroic effort).
Phải quyết tâm thắng được chính mình, sự tu tập
đòi hỏi một sự quyết chí (strong
determination) nhất là trong sự thiền tập.Tuy nhiên, sự tu tập không chỉ
là thiền tập mà cần phải hành đủ Lục
Ðộ. Ví dụ ta không giữ giới luật được trong
sạch thì khó mà có Ðịnh căn phát
triển; ta cũng cần phải hành hạnh bố thí, tập nhẫn nhục, phát
triển tâm từ, thỉnh thoảng ôn lại 37 phẩm trợ
đạo mà kiểm
điểm sự tu tập của mình...
- Phải chăng những người tiến bộ nhanh có nghiệp quả khá hơn mình
hoặc có căn cơ tốt với nhiều ba-la-mật?
Người đã tu tập nhiều từ nhiều kiếp trước, nay tiếp tục trở lại,
tiến bộ nhanh hơn thì cũng hợp lý. Căn cơ
hay nghiệp báo với trí tuệ của ta bây giờ thì chưa biết rõ
được, nhưng có trong Phật pháp thì
ta phải tin thôi, chờ chừng nào đạt được
Nhất Thiết Liễu Trí mới kiểm chứng được.
Trở lại với sự phát triển trí tuệ khởi đầu để được sáng
suốt hơn trong mọi quyết định hay chọn lựa trong cuộc sống thì sự
học hỏi Phật pháp (trạch pháp, Dhamma investigation) là một bước
đầu quan trọng. Chưa nói tới thiền tập để
thanh lọc tâm (Thanh Tịnh Ðạo), chúng ta cần có một sự hiểu biết
đúng đắn và căn
bản về con người (nhân sinh quan) và về vũ trụ (vũ trụ quan). Sự
hiểu biết về thân, tâm do đọc sách hoặc nghe
giảng là điều cần thiết. Ví dụ cuốn
Buddha's Words giảng giải về Sắc Danh (thân tâm), các sách giảng
dạy về sự tu tập của các Ngài Nhất Hạnh, Achan Chah, U Pandita, Achan
Naeb, U Silananda... đã trả lời cho
mình nhiều câu hỏi mà qua nhiều năm khoa học,
các triết lý và tâm lý học hiện đại đã
không giải đáp được cho mình. Tuy
nhiên sự hiểu biết do học hỏi bằng sách vở hoặc do thầy dạy chí mới là văn
huệ, các kiến thức cần thiết mà chưa toàn vẹn, một thứ kiến thức
vay mượn của người khác. Chúng ta lại cần phải suy tư do chính mình
để có sự thấu đáo về bất cứ một vấn đề nào:
đó là tư huệ. Cần có tư huệ
để tránh sự dễ dàng chấp nhận hoặc tin
tưởng mù quáng, dù kiến thức đến từ bất cứ
một nguồn gốc nào. Nhưng không thể dừng ở tư huệ vì
đây mới chỉ là là thuần lý; nếu ta
không có kinh nhiệm bản thân về một sự việc, một hiện tượng thì lấy gì mà
kiểm chứng? Hơn nữa sự suy tư này cũng chỉ trong vòng
đối đãi, những sự việc ở
đời này chỉ là tục
đế, không có một giá trị tuyệt đối như chân
đế... Vì vậy phải có tu tập để có một
sự hiểu biết rốt ráo bằng kinh nghiệm của chính mình:
đó là tu huệ. Giác ngộ bằng thiện tập
là trí tuệ thấu đạt bằng trực giác. Ví dụ ta
học Thân (Sắc) và Tâm (Thọ, Tưởng, Hành ,Thức) qua sách vở hoặc
nghe các bậc thầy giảng dạy và cho dù ta có nghiên cứu kỹ Vi Diệu Pháp
(Abhidhamma), để hiểu sự phân tích của
Tứ Ðại, các loại Tâm Sở, Tâm Vương, ta vẫn chưa thực sự"thấy"
được Thân và Tâm. Vi Diệu Pháp gồm 7
bộ, cần nhiều thì giờ để nghiên cứu,
có thể đọc các sách "A Manual of Abhidhamma"
của Ngài Narada, "A Comprehensive of Abhidhamma" của Ngài Bodhi;
muốn nghe giảng giải về Vi Diệu Pháp thì tìm 52 cuốn băng
giảng của Ngài Sayadaw U Silananda ở Như Lai Thiền Viện... Tuy
nhiên cũng không hẳn là cần phải học hết Tam Tạng, trì giới và thiền tập
mới là thiết yếu. Phải hành thiền cho đến khi
bắt đầu có kết quả, đạt được tuệ đầu tiên, tuệ Danh Sắc, thì ta mới
thực sự thấy rõ Thân và Tâm. Cũng tương tự, ai cũng có thể nói về
Nhân-Quả, Sinh-Diệt, bản chất của sự vật, sự dứt bỏ dính mắc... nhưng
thiền tập có kết quả rồi mới có các tuệ Nhân-Quả, tuệ Sinh Diệt, tuệ Thấu
Ðạt Tam Tướng, tuệ Xả. Học hỏi về các tầng tuệ nên tự nhắc nhủ là
đừng có sự mong cầu vì như
đã nói ở trên sự mong cầu chỉ là trở
ngại trong việc tu tập.
Các ngài Thiền Sư dạy rằng sự
đạt được Ðạo và Quả sẽ đến khi tu tập
có kết quả. Ngài U Pandita Sayadaw có dạy: "Không phải nhìn trời mà
đắc đạo, cũng không phải nghiên cứu
kinh điển mả thành
đạo. Cũng không phải suy tư hay mong ước mà
giác ngộ sẽ bùng vỡ trong tâm ta". Có những
điều kiện cần thiết để đưa đến giác ngộ: có bảy yếu tố giác ngộ
(Thất giác chi). Ðó là Niệm, Trạch Pháp,Tinh Tấn, Hỉ, Thư Thái, Ðịnh và
Xả. Bảy yếu tố này có thể tìm thấy khi hành thiền Minh Sát, rõ nhất khi ta
bắt đầu thấy sự sinh diệt của các hiện tượng.
Yếu tố Chánh Niệm thật là quan trọng, phải thực hành Chánh Niệm
thật kiên trì và không gián đoạn. Thực tập
Chánh Niệm thật là lợi ích: Chánh Niệm giúp ta theo rõi sự việc
đang xảy ra, nhớ mình
đang phải làm gì và nhìn thấy sự vật
đúng như bản chất của sự vật. Chưa nói tới
chuyện đạt được đạo quả, Chánh Niệm đã là chìa khóa mở cho ta nghệ
thuật sống trong hiện tại, an trú trong hiện tại, không
đánh mất mình trong quá khứ và tương
lai vì không giữ tâm ngay "bây giờ" và "ở
đây"; Chánh Niệm quả thực có thể chuyển nghiệp trong quá khứ và
thay đổi được tương lai. Chánh Niệm là
yếu tố bắt buộc phải có để có sự tiến bộ ở
mọi giai đoạn tu tập. Mỗi một hành giả như chúng ta phải phát triển
Chánh Niệm (Sati, Awareness) và Xả (Upekkha, Equanimity) trên con
đường dẫn đến Giải Thoát.
Nói tóm lại, mọi sự phát triển trí
tuệ để mở mang kiến thức tổng quát đều ích lợi; tuy nhiên, sự phát
triển trí tuệ bằng trạch pháp còn cần thiết hơn vì sự học hỏi Phật Pháp
giúp ta phân biệt được những sự thật có tính
cách đối đãi trong cuộc đời (tục đế) và
giúp ta hiểu hơn về bản chất thực sự của sự vật, tìm thấy con
đường để tu tập, để đi đến một sự phát triển
trí tuệ rốt ráo. Với con đường các bậc Giác Ngộ đã vạch rõ, chúng
ta chỉ cần có nhiều cố gắng, chuyên cần tu tập, hy vọng rằng với thuận
duyên, con đường này sẽ
đưa ta đến một tâm không còn ô nhiễm,
một trí tuệ được phát triển rốt ráo.
Ðó là Nhất Thiết Liễu Trí, đó là trí
tuệ biết được tất cả những gì cần
biết, đó là Giác Ngộ Giải Thoát.
-ooOoo-